Bài 15: Không Nhận Lãnh Đức Thánh Linh?


Phần đọc hôm nay:
·              II Sử ký 25:1–27:9
·              Thi thiên 84:1-7
·              Châm ngôn 21:4-5
·              Công Vụ các Sứ Đồ 19:1-20
Lưu ý:
II Sử ký 25:7 người của Đức Chúa Trời. Đây là thuật ngữ được sử dụng khoảng 70 lần trong Cựu Ước, luôn đề cập đến phát ngôn nhân của Đức Chúa Trời. Ông đã cảnh cáo A-ma-xia đừng lập Israel chuyên thờ lạy hình tượng làm đồng minh của mình vì Đức Giê-hô-va không ở với Ép-ra-im, nghĩa là, Israel, thủ phủ của sự thờ lạy hình tượng.
II Sử ký 25:8 Đức Chúa Trời có quyền. Người của Đức Chúa Trời đã nhắc cho nhà vua nhớ một cách mỉa mai rằng vua cần phải vững vàng, một khi Đức Chúa Trời không cứu giúp.
II Sử ký 25:14–16 A-ma-xia đã không suy nghĩ từ cả hai mặt: nhận định theo Kinh Thánh và nhận định theo chính trị — ông ôm lấy các thần giả dối của thứ dân mới vừa bị ông đánh bại. Có lẽ ông đã làm việc nầy vì ông bị quyến dụ bởi các khoái lạc của sự thờ lạy hình tượng và vì ông tưởng nó sẽ giúp ông biết chắc rằng chẳng có lời đe doạ nào trong tương lai từ phía Ê-đôm. Tuy nhiên, điều đó chỉ đem lại cho nhà vua sự huỷ diệt, là người chỉ muốn làm cho giọng nói của Đức Chúa Trời phải im bặt đi.
Công Vụ các Sứ Đồ 19:13 thầy trừ quỉ người Giu-đa đi từ nơi nầy sang chỗ kia. Simon Magus (8:9–25) và Bar-Jesus (13:6–12) là các điển hình khác khả thi về các tay lang băm như thế (Mathiơ 12:27). Khi đối chiếu với uy quyền tuyệt đối mà Chúa Jêsus cùng các sứ đồ đã thi hành thắng hơn ma quỉ, các tay lang băm nầy tìm cách trục xuất ma quỉ bằng cách nỗ lực kêu cầu một linh hiệu nghiệm nào đó — trong trường hợp nầy là Chúa Jêsus.
Công Vụ các Sứ Đồ 19:15 Chúa Jêsus … Phaolô ta biết. Sau khi công nhận các tay lang băm chẳng có uy quyền đối với hắn (không giống như Chúa Jêsus và Phaolô), ma quỉ từ chối nỗ lực trục xuất hắn ra khỏi nạn nhân của hắn. Điều nầy khẳng định rằng quyền phép đuổi quỉ thuộc về Chúa Jêsus cùng các sứ đồ và không thuộc về ai khác. Ngay cả ma quỉ cũng làm chứng cho điều đó.
Công Vụ các Sứ Đồ 19:19 sách vở. Nói tới bí quyết phép thuật. Đốt cháy chúng minh chứng sự chơn thật trong sự ăn năn của các thuật sĩ. Sau khi trừ diệt các sách vở nầy, họ khó mà nhớ lại các thực hành của họ. năm muôn đồng bạc. Năm mươi ngàn tiền công dành cho lao động phổ thông — một số tiền đáng ngạc nhiên được cung ứng cho cách thực hành ma thuật rộng rãi trong xứ Ê-phê-sô.

BÀI 15: Làm sao mà “các môn đồ” trong Công Vụ các Sứ Đồ 19:1 không nhận lãnh được Đức Thánh Linh?
Khi đến với thành Ê-phê-sô, Phaolô tìm gặp “một vài người môn đồ”. Họ là môn đồ của Giăng Báp-tít (câu 3), vì vậy là những kẻ tìm kiếm Cựu Ước. Nghĩa là họ chưa hiểu rõ đức tin Cơ đốc rõ ràng từ khi họ đáp trả câu hỏi của Phaolô (câu 2). Cụm từ “môn đồ” có nghĩa là “người học việc” hay “môn đệ”, và không luôn luôn đề cập đến Cơ đốc nhân (Mathiơ 9:14; 11:2; Mác 2:18; Luca 5:33; 7:18-19; 11:1; Giăng 1:35; 6:66). Các môn đệ của Giăng Báp-tít, giống như nhóm người nầy, đã tồn tại trong thế kỷ thứ nhì.
Từ khi anh em tin, có lãnh được Đức Thánh Linh chăng? (câu 2). Câu hỏi phản ảnh thái độ bất an của Phaolô về tình trạng thuộc linh của họ. Một khi hết thảy Cơ đốc nhân nhận lãnh Đức Thánh Linh vào thời điểm được cứu, câu trả lời của họ tỏ ra họ chưa phải là Cơ đốc nhân đúng mức. Họ chưa nhận lãnh phép báp-têm Cơ đốc (chịu báp-têm theo “phép báp-têm của Giăng”), là bằng chứng cho thấy rằng họ chưa phải là Cơ đốc nhân. Các môn đồ nầy chưa nhìn biết Chúa Jêsus ở Na-xa-rét là Đấng mà phép báp-têm của Giăng chỉ ra. Phaolô đã cung ứng cho họ phần hướng dẫn đừng hòng nhận lãnh Đức Thánh Linh, trừ ra do Đức Chúa Jêsus Christ. Chúng nghe bấy nhiêu lời, bèn chịu phép báp-tem nhân danh Đức Chúa Jêsus (câu 5). Họ tin theo phần trình bày Tin lành của Phaolô và đã đến với đức tin cứu rỗi trong Đức Chúa Jêsus Christ (2:41). Mặc dù mọi Cơ đốc nhân đều bi đòi hỏi, phép báp-têm không cứu được ai.
Khi ấy, “Phaolô … đặt tay lên” họ (câu 6). Điều nầy đưa họ hoà nhập vào trong Hội thánh. Các sứ đồ cũng nhắc tới khi Hội thánh ra đời (chương 2), và khi người Sa-ma-ri (chương 8) và các dân Ngoại (chương 10) được gộp vào. Trong mỗi trường hợp, mục đích của Đức Chúa Trời là nhấn mạnh đến sự hiệp một của Hội thánh. Rồi họ “nói tiếng ngoại quốc và lời tiên tri”. Điều nầy góp phần làm một minh chứng cho thấy họ chi thể của Hội thánh. Họ cũng cần bằng chứng rõ ràng rằng Đức Thánh Linh giờ đây đang ngự ở trong họ, kể từ khi họ chưa nghe nói rằng Ngài đã ngự đến (câu 2).



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bài 14: A-qui-la Và Bê rít-sin Trợ Giúp Thế Nào Cho A-bô-lô?

Bài 12: Vua Giô-sa-phát Bày Tỏ Đức Tin?

Bài 1: CVCSĐ 10:1-23 Cọt-nây là ai?