Bài 10: Đáp Ứng Khác Biệt?
Phần đọc hôm nay:
·
II Sử ký 15:1–16:14
·
Thi thiên 81:6-10
·
Châm ngôn 20:24-25
·
Công Vụ các Sứ Đồ
16:1-21
Lưu ý:
II Sử ký 15:1 Thần Đức
Chúa Trời. Một hành động của Đức Thánh Linh, thường xuyên trong Cựu
Ước, vùa giúp tôi tớ của Đức Chúa Trời nói hay làm thật đặc biệt cho Ngài. A-xa-ria. Nhân
vật nầy là một tiên tri chỉ được nhắc tới ở đây, ông đã gặp gỡ A-sa khi ông chiến
thắng trở về và đã trao đổi với ông trước mặt cả đạo binh của ông.
II Sử ký 15:2 Lẽ thật thuộc linh ở đây rất là cơ bản, nghĩa là Đức Chúa Trời đang hiện diện và đầy
quyền năng trong sự bảo hộ cho dân vâng phục của Ngài. Trong khi A-sa nhơn đức
đã cai trị 41 năm, 8 vua gian ác đã cai trị trong Israel, gồm có Giê-rô-bô-am, là
vua, cùng với bao người khác, là minh hoạ tiêu cực cho lẽ thật nầy.
II Sử ký 16:7 Ha-na-ni. Đức Chúa Trời đã sử dụng vị tiên tri nầy để quở trách A-sa: 1) vì sự chiếm dụng bất
nghĩa của cải đền thờ đã được dâng cho Đức Chúa Trời để mua lấy quyền lực, và 2)
vì sự nương cậy không bởi đức tin đối với một vua theo tà giáo thay vì nương cậy
nơi Đức Giê-hô-va, khi đối chiếu trước đó lúc bị Ai-cập lấn lướt (II Sử ký 14:9–15). nên đạo quân vua
Sy-ri đã thoát khỏi. Bởi tội lỗi nầy, A-sa mất cơ hội kiếm được
chiến thắng không những đối với Israel, mà còn đối với Sy-ri nữa. Có thể đây là
chiến thắng còn lớn lao hơn chiến thắng người Ê-thi-ô-pi, điều nầy sẽ khiến cho
Sy-ri sẽ chẳng còn tấn công thành công nào vào xứ Giu-đa. Mặc dù Đức Chúa Trời đã
giải cứu họ khi họ rơi vào khủng hoảng (13:3...;
14:9...), nhà vua đã tỏ ra phần suy thoái thuộc linh của chính mình, cả
hai: thiếu lòng tin cậy và trong cách xử sự của ông đối với vị tiên tri của Đức
Chúa Trời, là người nói ra lẽ chơn thật (câu
10).
Công Vụ các Sứ Đồ 16:1
có
một môn đồ tên là Ti-mô-thê. Một thanh niên (độ tuổi 20 sắp lên) được xem là “con thật của ta trong đức tin” (I Timôthê 1:2; II Timôthê 1:2), chắc chắn ông là cánh tay phải của
Phao-lô (I Côrinhtô 4:17; I Têsalônica 3:2;
Philíp 2:19). Thực vậy, ông trở thành người thay thế cho Giăng Mác. Sau khi
được uỷ thác bởi các trưởng lão của Hội thánh địa phương (I Timôthê 4:14; II Timôthê 1:6), ông hiệp cùng Phao-lô và Si-la. còn cha thì người Gờ-réc. Văn mạch cho thấy người cha đã qua đời. Vừa là Do-thái và dân Ngoại, Timôthê đã tiếp cận
cả hai nền văn hoá — một thứ không thể thiếu cho công cuộc truyền giáo.
Công Vụ các Sứ Đồ 16:3
làm phép cắt bì cho. Điều nầy được thực hiện để giúp cho ông được người
Do-thái chấp nhận và cung ứng sự tiếp cận đầy đủ với các nhà hội mà ông sẽ viếng
qua với Phao-lô và Si-la. Nếu Timôthê chưa chịu phép cắt bì, người Do thái sẽ
nghĩ ông đã đoạn tuyệt với cơ nghiệp Do-thái của mình và đã chọn sống như một
người Ngoại.
Công Vụ các Sứ Đồ 16:6
Đức Thánh Linh … cõi A-si. Phao-lô không được phép lo liệu mọi dự tính của
ông trong xứ Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay)
và với các thành phố như Êphêsô, Si-miệc-nơ, Phi-la-đen-phi-a, Lao-đi-xê, Cô-lô-se,
Sạt-đi, Bạt-găm, và Thi-a-ti-ra.
Công Vụ các Sứ Đồ 16:9
Ma-xê-đoan. Khu vực đối ngang biển Aegean phần lục địa của
Hy-lạp. Các thành phố Philíp và Têsalônica nằm ở đó. Quan trọng nhất, đi đến đó
là phải đem Tin lành từ Á-châu sang Âu-châu.
BÀI 10: Ly-đi và cô gái
bị quỉ ám ở thành Philíp đáp ứng đối với Tin lành khác nhau như thế nào?
Khi Phao-lô đến tại
thành Philíp (Công Vụ các Sứ Đồ 16:12),
rõ ràng là cộng đồng Do-thái không có tối thiểu 10 người Do-thái nào là chủ hộ
bắt buộc để hình thành một nhà hội. Trong các trường hợp như thế, một nơi cầu
nguyện ngoài trời gần một dòng sông hay bờ biển đã được sử dụng làm nơi nhóm lại.
Phần lớn chỗ nầy nằm trên con đường dẫn ra khỏi thành phố bắc ngang qua sông Gangites.
Phao-lô giảng “cho những đàn bà đến nhóm lại” (câu 13). Với bằng chứng sâu xa về số lượng nhỏ người nam Do-thái, chính
nữ giới đã nhóm lại đặng cầu nguyện, đọc từ luật pháp Cựu Ước, rồi thảo luận những
gì họ đã đọc.
Ly-đi đến từ thành phố
Thi-a-ti-rơ, là thành nằm trong tỉnh Lydia của người La-mã, vì vậy tên “Ly-đi” có lẽ đã được gắn với nguyên
quán của bà. Bà là người “buôn hàng sắc tía” (câu
14). Vì cớ loại hàng nầy cực kỳ đắt, y phục hàng sắc tía thường được giới
hoàng tộc hoặc giàu có may mặc. Kết quả là, công việc làm ăn của Ly-đi rất có
tiền, điều nầy giúp cho bà có một ngôi nhà lớn đủ để cho đội truyền giáo trú ngụ
(câu 15) và Hội thánh mới tại thành Philíp
(câu 40). “Những
người thờ phượng Đức Chúa Trời”. Giống như Cọt-nây, bà đã tin nơi Đức Chúa Trời
của Israel, song chưa trở thành người cải đạo trọn vẹn (10:2). Đức Giê-hô-va đã mở lòng của bà, và bà cùng người nhà mình
đã chịu phép báp-têm.
Cũng tại thành Philíp có
một cô gái “bị quỉ chuyên bói khoa ám” (câu 16), sát nghĩa: “hồn ma Python”. Cụm từ nầy ra từ chuyện
thần thoại Hy-lạp. Python là một con rắn canh giữ cái miễu tại Delphi. Thực vậy,
cô gái nầy là trung gian tiếp xúc với ma quỉ nào có khả năng nói trước cuộc
tương lai. Trong mấy ngày, nó theo sau Phao-lô và kêu la inh ỏi trên đường phố:
“Những người đó là đầy tớ của Đức Chúa Trời Rất Cao” (câu 17). El Elyon, Đức Chúa Trời Tuyệt Đối Chí Cao, là một tước
hiệu trong Cựu Ước (được sử dụng khoảng 50
lần) cho Đức Chúa Trời của Israel (Sáng
thế ký 14:18–22; Thi thiên 78:35; Đaniên 5:18). Nhưng hồn ma đã sai lầm, và
sau cùng Phao-lô xây lại nói cùng hồn ma đó: “Ta
nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ mà truyền mầy ra khỏi người đàn bà nầy” (câu 18). Ma quỉ rời khỏi cô gái trong sự vâng theo mạng lịnh của Phao-lô
và uy quyền sứ đồ của ông. Khả năng đuổi quỉ là khả năng đặc biệt của các sứ đồ
Đấng Christ (Mác 3:15; II Côrinhtô 12:12).
Nhận xét
Đăng nhận xét