Bài 13: Phao-lô phát biểu ra sao?


Phần đọc hôm nay:
·              II Sử ký 21:1–22:12
·              Thi thiên 83:1-8
·              Châm ngôn 21:1
·              Công Vụ các Sứ Đồ 17:16-34
Lưu ý:
II Sử ký 21:11 khiến cho dân Giu-đa lầm lạc. Chắc chắn, ông ta chịu ảnh hưởng do cuộc hôn nhân với con gái của A-háp (câu 6) và chịu ảnh hưởng trong mối liên minh giống y như cha của mình (II Sử ký 18:1). Họ không tiếp thu từ tấm gương tội lỗi của Vua Solomon (I Các Vua 11:3-4). A-tha-li, người vợ gian ác của ông, về sau lên cai trị trên xứ Giu-đa và đã tìm cách quét sạch dòng dõi hoàng tộc của David (II Sử ký 22:10).
II Sử ký 21:12–15 Ê-li, được biết đến qua sự ông đương diện với A-háp và Giê-sa-bên của Israel (I Các Vua 17 – II Các Vua 2:11), đối diện với các tội lỗi thờ lạy hình tượng và giết người của Giô-ram (21:13). Mọi hậu quả từ sự phán xét của Đức Chúa Trời trải qua ông đến gia đình và xứ sở của ông (21:14-15). Sự cố nầy chắc chắn đã xảy ra trong những năm đầu sự vững chắc của Giô-ram với cha mình là Giô-sa-phát và một thời gian ngắn trước khi Ê-li về trời, khoảng năm 848TC (II Các Vua 2:11-12).
Thi thiên 83:4 tuyệt diệt chúng nó. Các dân thù nghịch, dưới ảnh hưởng của Satan, không công nhận lời hứa của Đức Chúa Trời gìn giữ dân Israel cho đến đời đời (Sáng thế ký 17:7-8; Thi thiên 89:34–37).
Công Vụ các Sứ Đồ 17:18 mấy nhà triết học về phái Epicuriens và phái Stocien. Triết lý phái Epicurean dạy rằng cứu cánh chính của con người là tránh đau khổ. Những người thuộc phái Epicurean đều là những kẻ chuộng theo vật chất — họ không chối bỏ sự tồn tại của Đức Chúa Trời, nhưng họ tin Ngài không dính dáng gì đến các vụ việc của con người. Khi một người chết đi, họ tin thân và hồn của người đã bị phân huỷ. Triết lý Stoic dạy về sự tự chủ — rằng mục tiêu trong cuộc sống là phải với tới chỗ dửng dưng với khoái lạc hay đau khổ. kẻ già mép. Sát nghĩa: “kẻ chọn giống”. Một số triết gia đã xem Phao-lô là một triết gia không chuyên — một người chẳng có ý kiến chi cho bản thân mình, nhưng là kẻ duy nhứt xuất chúng giữa vòng các triết gia đang thịnh hành và được dựng nên chẳng có chiều sâu nào hết.
Công Vụ các Sứ Đồ 17:28 Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có. Một trưng dẫn từ thi sĩ Epimennides người xứ Crête.
Công Vụ các Sứ Đồ 17:29 dòng dõi của Đức Chúa Trời. Một trưng dẫn từ Aratus, ông nầy đến từ khu vực Cecilia quê hương của Phao-lô. chớ giống như vàng bạc. Nếu con người là dòng dõi của Đức Chúa Trời, như thi sĩ Hy-lạp đề xuất, thật là dại dột khi nghĩ rằng Đức Chúa Trời chẳng khác gì hơn một hình tượng do con người tạo ra. Lối lý luận ấy chỉ ra tính cách vô nghĩa của sự thờ lạy hình tượng (Êsai 44:9–20).

BÀI 13: Phao-lô phát biểu thế nào về các triết gia Hy-lạp?
Trong việc giảng cho họ về Chúa Jêsus và sự phục sinh, Phao-lô được dẫn đến đền Areopagus (Công Vụ các Sứ Đồ 17:19). Đây là một toà án được đặt theo tên của ngọn đồi mà toà án hay nhóm lại. Phao-lô không bị xét xử theo hình thức; chỉ bị tra hỏi để biện hộ sự giảng dạy của mình.
Ngay lập tức Phao-lô nhắc tới tấm bia để thờ lạy: THỜ THẦN KHÔNG BIẾT. Người thành A-then là những người theo phái siêu nhiên — họ tin vào quyền lực siêu nhiên đã can thiệp vào sự vận hành của luật lệ thiên nhiên. Ít nhất, họ đã công nhận sự tồn tại của một đấng nào đó cao siêu hơn khả năng hiểu biết của họ về Đấng đã dựng nên muôn vật. Nhơn đó Phao-lô có cơ hội để giới thiệu cho họ biết Đức Chúa Trời Đấng Tạo Hoá mà ai cũng có thể nhìn biết. Khi truyền giáo cho người theo ngoại giáo, Phao-lô đã khởi sự từ sự sáng tạo, sự khải thị tổng quát của Đức Chúa Trời (14:15–17). Khi truyền giáo cho người Do-thái, ông đã khởi sự từ Cựu Ước (các câu 10–13).
Khi nói cho họ biết về “Đức Chúa Trời, là Đấng đã dựng nên thế giới” (câu 24) thẳng thừng ngược lại với cả hai: phái Epicurean, họ tin vật chất là đời đời rồi vì lẽ đó chẳng có đấng tạo hoá nào hết, và phái Stoic, họ theo thuyết phiếm thần, họ tin Đức Chúa Trời là một phần của muôn vật và không thể tự dựng nên chính mình Ngài được. Rồi thêm vào đó “Ngài làm cho muôn dân sanh ra bởi chỉ một người” (câu 26) cũng đương đầu với họ một cách trực tiếp. Mọi người đều bình đẳng trước mặt Đức Chúa Trời một khi hết thảy ai nấy đều ra từ một người, là A-đam. Sự dạy nầy là một cú đấm cho sự kiêu ngạo dân tộc của người Hy-lạp, họ tin hết thảy những ai không phải là người Hy-lạp đều là người dã man.và khiến ở khắp trên mặt đất, định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở. Đức Chúa Trời chí cao cầm quyền khiến cho các nước và các đế quốc dấy lên rồi sụp xuống (Đaniên 2:36–45; Luca 21:24). Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm về sự dựng nên các nước tuỳ theo lai lịch chủng tộc cũng như vị trí địa lý đặc biệt của họ (Phục truyền luật lệ ký 32:8) và quyết định tầm cỡ công cuộc chinh phục của họ (Êsai 10:12–15).
Mục tiêu của Đức Chúa Trời dành cho con người trong việc bày tỏ chính mình Ngài ra là Đấng Tạo Hoá, là Vua, và là Đấng điều khiển thế gian, ấy là họ phải “tìm kiếm Đức Chúa Trời” (câu 27). Con người không thể cáo lỗi về việc không biết về Đức Chúa Trời vì Ngài đã bày tỏ chính mình Ngài ra trong lương tâm của con người và trong thế giới vật chất (Rôma 1:19-20; 2:15).


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bài 14: A-qui-la Và Bê rít-sin Trợ Giúp Thế Nào Cho A-bô-lô?

Bài 12: Vua Giô-sa-phát Bày Tỏ Đức Tin?

Bài 1: CVCSĐ 10:1-23 Cọt-nây là ai?