Bài 4: Hê-rốt là ai?
Phần đọc hôm nay:
·
II Sử Ký 3:1–4:22
·
Thi thiên 79:5-10
·
Châm ngôn 20:10-12
·
Công Vụ các Sứ Đồ
12:1-25
Lưu ý:
II Sử Ký 3:10–13 hai
chê-ru-bin. Hai chê-ru-bin đứng tự do nầy được thêm vào bộ
chê-ru-bin nhỏ hơn đặt trên chính hòm giao ước.
II Sử Ký 3:14 bức
màn. Bức màn phân biệt Nơi Thánh đối với Nơi Chí Thánh, là nơi mỗi năm thầy tế
lễ thượng phẩm bước vào một lần vào ngày Lễ Chuộc Tội (Lê-vi ký 16). Sự tiếp cận hạn chế nầy đối với sự hiện diện của Đức
Chúa Trời đã bị huỷ bỏ bởi sự chết của Đấng Christ, khi bức màn trong Đền Thờ của
Hê-rốt bị xé làm hai từ trên chí dưới (Mathiơ
27:51). Như vậy, người tin Chúa vốn có một sự tiếp cận ngay tức khắc, trọn
vẹn sự hiện diện của Đức Chúa Trời qua Đấng Trung Bảo và Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm
Đức Chúa Jêsus Christ của họ, Ngài là của lễ trọn vẹn, dâng lên một lần đủ cả (Hêbơrơ 3:14–16; 9:19–22).
II Sử Ký 4:1 bàn
thờ bằng đồng. Đây là bàn thờ chính, trên đó đặt các của lễ được dâng lên (đền thờ trong đền thờ thuộc thời kỳ thiên
hi niên, Êxêchiên 43:13–17). Về sự so sánh với bàn thờ của đền tạm, hãy xem
Xuất Êdíptô ký 27:1–8; 38:1–7. Nếu cubit 18 inches được sử dụng
thay vì cubit 21 inches, bạn thờ sẽ 30
feet vuông vức và 15 feet bề cao.
II Sử Ký 4:2 cái
Biển. Cái chậu lớn nầy được sử dụng cho việc thanh tẩy theo nghi thức. Trong đền thờ
thời kỳ thiên hi niên của Êxêchiên, cái chậu chắc chắn sẽ được thay thế bằng
dòng sông chảy ngang qua đền thờ (Êxêchiên
47:1–12).
Thi thiên 79:9 sự cứu
rỗi. Cụm từ,
được thấy có 3 lần trong sách Thi thiên (65:3;
78:38), ý nói che đậy tội lỗi cùng mọi tác dụng của nó. Trong Cựu Ước, sự cứu
chuộc được biểu tượng hoá trong nghi thức sinh tế, dù sự tha tội bắt buộc phải
dựa trên sự chết của Đấng Christ áp dụng cho tội nhân biết ăn năn (Hêbơrơ 9). Vì cớ danh Chúa. Sự thất bại của một quốc gia ai cũng tin đó là thất bại của một vì thần. Một
dấu hiệu nói tới sự trưởng thành thuộc linh là sự quan tâm của một người đối với
tiếng tăm của Đức Chúa Trời.
Công Vụ các Sứ Đồ
12:12 Mari. Mác được xem là anh em chú bác của Ba-na-ba trong Côlôse 4:10, như
vậy Mary là dì của Mác. Giăng … Mác. Anh em chú bác của of Ba-na-ba (Côlôse 4:10), đồng hành với Phierơ lúc
còn thanh niên (I Phierơ 5:13), ông đồng
hành với Ba-na-ba và Phao-lô đến thành An-ti-ốt (câu 25) rồi sau đó đến Chíp (13:4-5).
Ông rời họ ở Bẹt-giê (13:13), và Phao-lô
từ chối không đem ông đi cùng trên chuyến hành trình truyền giáo thứ hai vì sự
rời bỏ đó (15:36–41). Ông đồng hành với
Ba-na-ba đến Chíp (15:39). Ông biệt
tăm cho tới khi gặp gỡ Phao-lô tại Rome trong vai trò bạn đường và bạn đồng sự (Côlôse 4:10; Phi-lê-môn 24). Trong lần ở
tù lần thứ nhì của Phao-lô ở Rome, Phao-lô đã cần đến sự có mặt của Giăng Mác
là ích lợi cho ông (II Timôthê 4:11).
Ông đã viết sách Tin lành thứ nhì mang tên của ông, với sự vùa giúp của Phierơ (I Phierơ 5:13).
Công Vụ các Sứ Đồ
12:17 Giacơ. Em của Chúa, bấy giờ quản nhiệm Hội
thánh Jerusalem. Ông đã rời đi. Trừ ra lần xuất hiện ngắn ngủi ở chương 15, Phierơ mờ dần khỏi bối cảnh trong phần
còn lại sách Công Vụ các Sứ Đồ chỉ nói tới Phao-lô và chức vụ của ông.
BÀI 4: Hê-rốt là ai
trong Công Vụ các Sứ Đồ 12, ông ta đã bạo lực bắt bớ Hội thánh?
“Vua Hê-rốt” ở câu 1 là Hê-rốt Ạt-ríp-ba I, ông ta cai trị từ
năm 37 đến năm 44SC và là cháu nội của Hê-rốt Đại Đế. Vì nợ nần quá nhiều ở
Rome rồi trốn đến xứ Palestine. Bị Hoàng đế Tiberius bắt bỏ ngục sau khi có một
số lời bình vô ý tứ, chắc chắn ông ta đã được thả ra sau cái chết của Tiberius,
rồi được lập làm người cai trị phía Bắc xứ Palestine, xứ Giu-đê và Sa-ma-ri được
thêm vào xứ ấy vào năm 41SC. Giống như cái hàng rào nghịch lại mối quan hệ lung
lay của ông ta với Rome, ông bợ đỡ để được ưu ái với người Do-thái bằng cách bắt
bớ Cơ đốc nhân.
Ông dùng gươm giết Giacơ
anh của Giăng (câu 2). Giacơ là sứ đồ
tuận đạo đầu tiên. Tư thế hành quyết ông cho thấy Giacơ đã bị tố giác lãnh đạo
dân sự đi theo các tà thần (Phục truyền
luật lệ ký 13:12–15). Ông ta cũng bỏ tù Phierơ và đặt Phierơ vào sự canh giữ
của “4 ngũ binh” (câu
4). Mỗi ngũ binh có 4 tên lính và luân phiên canh chừng Phierơ. Lúc nào
cũng có 2 tên lính bị xiềng chung với Phierơ ở trong ngục, trong khi 2 tên lính
khác đừng ngoài cửa xà lim (câu 6).
Sau khi thiên sứ giải cứu
Phierơ, Hê-rốt “truyền lịnh giết” mấy tên lính canh có
trách nhiệm ở đó (câu 19). Theo Justinian’s Code (ix. 4:4), một tên lính nào để cho tù
nhân thoát thân sẽ chịu chung số phận án phạt chờ đợi tội nhân ấy.
Sau đó, Hê-rốt chịu sự
phán xét của Đức Chúa Trời. “Đến kỳ” (câu 21), ở bữa tiệc chiêu đãi người bảo trợ của Hê-rốt, Hoàng đế
La-mã là Claudius, Hê-rốt đến “mặc áo chầu”. Theo Josephus [sử gia
Do-thái], ông ta đã mặc áo làm bằng bạc. Khi dân chúng tri hô: “ấy là tiếng của một thần, chẳng phải tiếng người ta đâu!” Kinh Thánh cho chúng ta
biết rằng Hê-rốt “chẳng nhường sự vinh
hiển cho Đức Chúa Trời” (câu 23), là tội
mà vì đó thiên sứ đã đánh ông ta (44SC). “Và vua bị trùng đục mà chết” (câu 23). Theo Josephus, Hê-rốt đã chịu đựng nỗi đau đớn trong 5 ngày
trước khi ông ta ngã chết.
Nhận xét
Đăng nhận xét