Bài 6: II Sử ký 7:14 Liên Quan?
Phần đọc hôm nay:
·
II Sử ký 7:1–8:18
·
Thi thiên 80:1-6
·
Châm ngôn 20:15
·
Công Vụ các Sứ Đồ 13:26-52
Lưu ý:
II Sử ký 7:17, 18 nếu … thì. Nếu có sự vâng lời nơi phần của dân tộc, vương quốc sẽ được thiết
lập và họ sẽ có "một
người quản trị".
Sự bất tuân của họ là thứ truyện cổ tích và sự hủy diệt của vương quốc và sự tan
rải họ cũng một thể ấy. Khi Israel được cứu (Rô-ma
11:25-27, Xachari 12:14), khi ấy Vua Mêsi của họ sẽ dựng nên vương quốc
vinh hiển này (Khải huyền 20:1…).
II Sử ký 8:11 công chúa Pha-ra-ôn. I Các Vua 3:1 nhắc tới cuộc hôn nhân cùng sự thực Solomon đã đưa nàng về thành
Jerusalem cho đến khi ông xây cung điện cho nàng. Cho đến lúc cung điện được
xây dựng, Solomon sống trong cung điện của David, song không cho phép nàng đến ở
tại đó, vì nàng là một người ngoại giáo và vì hòm giao ước của Đức Chúa Trời đã
từng ngự trong nhà của David. Ông biết rõ cuộc hôn nhân của mình với kẻ tà giáo
nầy là không đẹp lòng Đức Chúa Trời (Phục
truyền luật lệ ký 7:3-4). Chắc chắn những người vợ tà giáo nầy đã gây ra
nhiều hậu quả khó lường (I Các Vua 11:1–11).
Công Vụ các Sứ Đồ 13:29-30 cây thập tự … mả … Đức
Chúa Trời làm cho kẻ chết sống lại. Cựu Ước nói trước Đấng Christ bị đóng đinh trên một cây thập tự (Thi thiên 22; Phục truyền luật lệ ký 21),
lúc bấy giờ hình thức hành quyết nầy chưa được áp dụng. Ngài được chôn trong một
cái “mả” cũng
đã được nói trước (Êsai 53:9), tuy
nhiên nạn nhân của những cuộc đóng đinh trên thập tự giá thường bị quăng vào
khu nghĩa địa. Đỉnh cao sứ điệp của Phaolô là sự sống lại của Đấng Christ, minh
chứng tối hậu cho thấy Đấng Christ là Đấng Mêsi và là sự ứng nghiệm của 3 lời
tiên tri đặc biệt (các câu 33–35).
Công Vụ các Sứ Đồ 13:39 được xưng công bình từ. Câu nầy được dịch hay hơn “được
buông tha từ”. theo luật pháp Môi-se chẳng có thể được xưng
công bình. Việc giữ theo Luật pháp Môi-se không buông tha bất kỳ ai khỏi mọi tội lỗi của họ (Rô-ma 3:28; I Cô-rinh-tô 1:30; Ga-la-ti 2:16; 3:11; Philíp 3:9).
Nhưng sự chết chuộc tội của Chúa Jêsus làm thoả mãn hoàn toàn luật pháp của Đức
Chúa Trời, tạo ra sự tha tội sẵn có cho hết thảy người nào tin (Galati 3:16; Côlôse 2:13-14). Chỉ có sự
tha thứ của Đấng Christ mới có thể buông tha người ta ra khỏi mọi tội lỗi của họ (Rô-ma 3:20, 22).
Công Vụ các Sứ Đồ 13:43 người mới theo đạo. Những ai cải sang Do-thái giáo đều phải chịu cắt bì. cứ vững lòng theo ơn Đức Chúa Trời. Người nào thực sự được cứu đều bền đỗ và kiểm chứng
thực tại ơn cứu rỗi của họ bằng cách cứ vững lòng theo ơn Đức Chúa Trời (Giăng 8:31; 15:1–6; Côlôse 1:21–23; I Giăng
2:19). Với sự khích lệ ấy, Phaolô và Ba-na-ba hy vọng ngăn trở những kẻ nào
tin theo các lẽ thật của đạo Tin lành bằng trí khôn, tuy nhiên thôi không còn
thiếu đức tin, từ chỗ quay lại với chủ nghĩa thiên về với luật pháp thay vì
vòng tay ôm lấy Đấng Christ một cáj trọn vẹn.
Công Vụ các Sứ Đồ 13:51 phủi bụi nơi chân mình. Sự đối kháng của người Do-thái đối với các dân
Ngoại cho thấy họ không bằng lòng ngay cả việc đem bụi đất dân Ngoại vào trong
xứ Israel. Tính cách biểu tượng hành động của Phaolô và Ba-na-ba cho thấy rõ rằng
họ xem người Do-thái tại thành An-ti-ốt chẳng tốt đẹp gì hơn người theo tà giáo.
Chẳng có một sự xét đoán nào mạnh hơn thế.
BÀI 6: Một câu Kinh Thánh như II Sử ký 7:14 liên
quan thế nào đến một quốc gia như nước Mỹ?
“và nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình xuống,
cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên trời sẽ
nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ”
Không như Israel thời xưa, Mỹ không phải là một
quốc gia giao ước. Đức Chúa Trời không lập một lời hứa nào với các tổ phụ nhằm
bảo đảm thể chế quốc gia của chúng ta. Nếu Israel phải lo chu toàn các điều kiện
để được phước thiêng liêng, mặc dù Đức Chúa Trời đã giao ước với họ trong vai
trò tuyển dân của Ngài, chắc chắn Mỹ không có một lời xưng nhận về ơn phước của
Đức Chúa Trời. Bao lâu sự vô tín và sự bất tuân đối với Ngôi Lời nhuộm lấy linh
hồn xứ sở chúng ta, nhất định chúng ta không thể trông mong ơn phước của Đức
Chúa Trời. Israel không thể nhận lãnh ơn phước ấy trong sự vô tín của mình.
Nhưng đối với chúng ta là Cơ đốc nhân, các ơn
phước trong giao ước được áp dụng. “Lại nếu anh em thuộc về Đấng Christ, thì anh
em là dòng dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế tự theo lời hứa” (Galati 3:29).
Mọi lời hứa về sự cứu rỗi, thương xót, tha tội, và thịnh vượng thuộc linh đều
thuộc về chúng ta phải đòi hỏi bao lâu chúng ta giữ lòng trung tín với Đức Chúa
Trời.
Đấy là lý do tại sao toàn bộ tình trạng thuộc
linh của Hội thánh trong xứ sở của chúng ta là chìa khoá cho ơn phước của xứ sở.
Nếu Đức Chúa Trời muốn chúc phước cho nước Mỹ, việc ấy không phải là vì cớ bản
thân xứ sở đâu. Ngài chúc phước cho xứ sở, và luôn luôn làm như thế, là vì cớ
dân sự của Ngài. Nếu chúng ta được kêu gọi theo danh của Ngài không lo chu toàn
mọi điều kiện để được phước thiêng liêng, thì chẳng có hy vọng gì cho phần còn
lại của xứ sở.
Mặt khác, nếu Hội thánh thích ứng với việc nhận
lãnh ơn phước của Đức Chúa Trời, cả xứ sẽ được ích về điều đó, vì Lời của Đức
Chúa Trời đã được rao giảng với quyền phép, Đức Chúa Trời sẽ thêm người vào
trong Hội thánh của Ngài, và các ơn phước thuộc linh đủ loại sẽ theo sau. Và đấy
là các ơn phước đích thực trong mọi ơn phước.

Nhận xét
Đăng nhận xét