Bài 7: CVCSĐ 14 Các Phản Ứng Khác Nhau.


Phần đọc hôm nay:
·              II Sử ký 9:1–10:19
·              Thi thiên 80:7-13
·              Châm ngôn 20:16-18
·              Công Vụ các Sứ Đồ 14:1-28
Lưu ý:
II Sử ký 9:29 Trong những năm về sau, Solomon đã xây khỏi Đức Chúa Trời; và, do ảnh hưởng của mấy người vợ, ông đã lãnh đạo xứ sở vào sự thờ lạy hình tượng. Điều này làm chia rẽ vương quốc và gieo ra những hột giống dẫn đến sự thất bại và phân tán của đất nước. Các sách Sử ký không ghi lại kết cuộc đáng buồn của đời sống Solomon vì trọng tâm nhắm vào sự khích lệ những người Do-thái trở về từ xứ Ba-by-lôn với lời hứa của Đức Chúa Trời cho họ về một tương lai vinh hiển trong Giao Ước với David.
Thi thiên 80:8 từ Ê-díp-tô Chúa dời sang một cây nho. Cây nho là ẩn dụ nói tới Israel, Đức Chúa Trời đã giải cứu họ ra khỏi Ai-cập rồi trưởng dưỡng thành một quốc gia đầy quyền lực (Êsai 5:1–7; 27:2–6; Mathiơ 21:33–40).
Châm ngôn 20:16 Áo xống thường là vật bảo đảm cho một món nợ nhưng luôn luôn phải trả chúng lại khi mặt trời lặn (Xuất Êdíptô ký 22:26, 27; Phục truyền luật lệ ký 24:10–13). “Người đàn bà lạ” thì giống như “người ngoại”. Bất kỳ ai dại dột nắm lấy trách nhiệm nợ nần của một người lạ hay một người đàn bà phi đạo đức sẽ không bao giờ được trả bồi, vì người sẽ không bao giờ trả cho chủ nợ trừ phi áo xống của người bị lấy làm tin.
Công Vụ các Sứ Đồ 14:4 hai sứ đồ. Ba-na-ba không phải là một sứ đồ theo cùng ý nghĩa với Phao-lô và 12 người kia một khi ông không phải là chứng nhân Đấng Christ phục sinh, ông cũng không được Ngài kêu gọi. Hay nhứt khi dịch “hai sứ đồ” ở đây là “hai sứ giả” (II Côrinhtô 8:23; Philíp 2:25). Động từ có ý nghĩa là “sai đi”. 12 sứ đồ và Phao-lô đều là “sứ đồ của Đấng Christ” (II Côrinhtô 11:13; I Têsalônica 2:6), trong khi Ba-na-ba cùng nhiều người khác là “sứ đồ của Hội thánh” (II Côrinhtô 8:23).
Công Vụ các Sứ Đồ 14:15–17 Vì đám dân đông ở Lít-trơ đều là người ngoại giáo và chẳng hiểu biết gì về Cựu Ước, Phao-lô đã chỉnh lại sứ điệp của ông sao cho thích ứng với khán giả. Thay vì rao giảng Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Giacốp, ông tỏ ra sự hiểu biết tổng quát và hợp lý về Đấng đã dựng nên thế gian (17:22–26; Giôna 1:9).
Công Vụ các Sứ Đồ 14:17 Ngài cứ làm chứng về mình luôn. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và quyền phép sáng tạo của Ngài làm sáng tỏ lý luận của con người về sự hằng hữu của Ngài (Rô-ma 1:18–20), cũng như lương tâm của con người, là chỗ chứa luật đạo đức của Ngài (Rô-ma 2:13–15).

BÀI 7: Công Vụ các Sứ Đồ 14 chỉ ra các phản ứng khác nhau về sự rao giảng Tin lành của Đấng Christ như thế nào!?!
Thành Y-cô-ni là địa điểm văn hoá của người Phrygia, người Hy-lạp, người Do-thái, và những người dân thuộc địa của La-mã. Một đám dân đông đảo đến với đức tin khi Phao-lô và Ba-na-ba "đầy dẫy sự bạo dạn và đức tin trong Chúa, và Chúa dùng tay của hai sứ đồ làm những phép lạ dấu kỳ, mà chứng về đạo ân điển của Ngài" (câu 3). Những hành động đầy quyền phép thiêng liêng đó khẳng định rằng Phao-lô và Ba-na-ba đã rao giảng về Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sứ điệp Tin lành phân thành phố ra làm hai và một nỗ lực bạo động đã được thực hiện bởi cả hai: người ngoại và dân Do-thái, với các bậc cầm quyền của họ, ngược đãi và ném đá họ (câu 5). Điều này chứng minh rằng các đối thủ Do-thái của họ là những kẻ xúi giục, một khi ném đá là một hình thức hành hình của người Do-thái, thường dành cho trường hợp phạm thượng.
Ra khỏi thành Y-cô-ni, họ đến Lít-trơ và Đẹt-bơ, hai thành của Ly-cao-ni (câu 6). Ly-cao-ni là một khu vực ở trong tỉnh Ga-la-ti của người La-mã. Lít-trơ cách thành Y-cô-ni 18 dặm và là quê hương của Lô-ít, Ơ-nít, và Timôthê (16:1; II Timôthê 1:5). Phản ứng kỳ lạ bởi người thành Lít-trơ trước việc chữa lành cho người què, người nầy không đi đứng được (câu 8), có gốc rễ trong văn hoá dân gian địa phương. Theo truyền khẩu, các thần Zeus và Hermes đã viếng qua Lít-trơ, xin ăn và ở. Mọi người xua họ đi trừ ra một nông dân có tên là Philemon cùng vợ người là Baucis. Hai vị thần thực hiện báo thù bằng cách nhận chìm mọi người trong một cơn lụt. Nhưng họ biến túp lều tranh của Philemon và Baucis thành một đền thờ, họ sống ở đó để phục vụ trong vai trò thầy [cô] tế lễ. Không muốn lặp lại lỗi lầm của các tổ phụ họ, dân thành Lít-trơ đã tin Ba-na-ba là thần Zeus và Phao-lô là thần Hermes.
Bấy giờ có mấy người Giu-đa từ thành An-ti-ốt và thành Y-cô-ni đến dỗ dành dân chúng; chúng ném đá Phao-lô, tưởng người đã chết, nên kéo ra ngoài thành” (câu 19). Phao-lô không chết do bị ném đá như có người nói, ông kết điều nầy với kinh nghiệm lên đến tầng trời thứ ba của mình trong II Côrinhtô 12. “Giả sử” thường nói “giả sử việc ấy là không thật”. Cách dùng từ nầy trong Tân Ước cho rằng phần giả định của đám dân đông là không chính xác và Phao-lô đã không chết. Phần luận lẽ khác về phân đoạn nầy cho rằng Phaolô đã sống lại từ kẻ chết, tại sao Luca nhắc tới việc ấy chứ? Thời điểm kinh nghiệm lên đến tầng trời thứ ba của Phaolô và thời điểm ném đá không phù hợp.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bài 14: A-qui-la Và Bê rít-sin Trợ Giúp Thế Nào Cho A-bô-lô?

Bài 12: Vua Giô-sa-phát Bày Tỏ Đức Tin?

Bài 1: CVCSĐ 10:1-23 Cọt-nây là ai?