Bài 8: Giáo Hội Nghị Jerusalem.


Phần đọc hôm nay:
·              II Sử ký 11:1–12:16
·              Thi thiên 80:14-19
·              Châm ngôn 20:19-21
·              Công Vụ các Sứ Đồ 15:1-21
Lưu ý:
II Sử ký 12:2–5 Si-sắc. Ông ta cai trị trên Ai-cập khoảng năm 945–924TC. Một tường trình của người Ai-cập nói tới cuộc bao vây nầy được ghi ra trên bảng đá được tìm thấy, ghi lại rằng quân đội của Si-sắc đã xâm nhập suốt con đường phía Bắc Biển Ga-li-lê. Ông ta muốn phục hồi quyền lực một thời oanh liệt của Ai-cập, nhưng không thể chinh phục được cả Israel và Giu-đa. Tuy nhiên, ông ta đã tiêu diệt các thành trong xứ Giu-đa và nắm được quyền kiểm soát các con đường thương mại. Giu-đa bị Ai-cập khống chế.
II Sử ký 12:6-7 hạ mình xuống. Khi đối diện với nhà chinh phục người Ai-cập, các cấp lãnh đạo đã đáp ứng với Lời của Đức Chúa Trời qua vị tiên tri (câu 5) và đã ăn năn, hầu cho Đức Chúa Trời sẽ chấm dứt cơn thạnh nộ của Ngài tác động qua Si-sắc.
II Sử ký 12:8 Song. Một sự sửa phạt thích hợp phát sinh để nhắc cho người Do-thái nhớ đến cơ nghiệp của họ trong quan hệ với Ai-cập. Đây là cuộc chạm trán quân sự đầu tiên với Ai-cập kể từ khi Xuất Ai-cập chấm dứt mấy trăm năm nô lệ ở đó. Một hương vị bị làm nô lệ một lần nữa cho một dân mà Đức Chúa Trời đã ban sự giải phóng cho là cay đắng. Sứ điệp rất là rõ ràng nếu người Do-thái từ bỏ sự thờ phượng thật của Đức Chúa Trời, họ cũng sẽ mất đi bàn tay bảo hộ phước hạnh của Ngài. Phục vụ Đức Chúa Trời thì tốt hơn phục vụ "nước khác".
Thi thiên 80:17 con người. Trong văn mạch, cụm từ nầy chủ yếu là phần tham khảo đến Israel. Theo một ý nghĩa phụ, “con người” có thể ám chỉ đến triều đại của vua David và thậm chí kéo dài cho đến Đấng Mêsi, một khi Ngài thường được gọi bởi tước hiệu ấy trong Tân Ước.
Châm ngôn 20:21 được vội vã. Điều nầy ám chỉ một phương pháp không công bình khi kiếm được một sản nghiệp, để rồi nó sẽ mất đi bởi cách thức không công bình hay bởi sửa phạt.
Công Vụ các Sứ Đồ 15:19 chẳng nên khuấy rối. Từ ngữ Hy-lạp nói tới “khuấy rối” có nghĩa là “quăng một thứ gì đó lên đường đi để làm phiền người ta”. Quyết định của Giáo hội nghị Jerusalem, sau khi xem xét mọi chứng cớ, ấy là việc tuân giữ luật pháp và vâng giữ các nghi thức không phải là những bó buộc để được cứu. Những người thuộc Do-thái giáo cần phải đình chỉ việc gây rối và làm phiền các dân Ngoại.

BÀI 8: Tại sao giáo hội nghị đầu tiên trong Công Vụ các Sứ Đồ 15 là giáo hội nghị long trọng nhất từng được tổ chức?
Xuyên suốt lịch sử, các cấp lãnh đạo Hội thánh đã đối diện với việc ổn định những vấn đề liên quan tới giáo lý. Các sử gia chỉ ra 7 giáo hội nghị cấp thế giới trong lịch sử đầu tiên Hội thánh, đặc biệt là Các Giáo hội nghị Nicea (325TC) và Chalcedon (451TC). Tuy nhiên, giáo hội nghị quan trọng nhất là giáo hội nghị đầu tiên — Giáo hội nghị Jerusalem — vì nó thiết lập câu trả lời cho thắc mắc quan trọng nhất về lẽ đạo của mọi người: “Một người phải làm gì để được cứu?” Các vị sứ đồ và trưởng lão bất chấp mọi nỗ lực nhắm vào chủ nghĩa thiên về với luật pháp và nghi thức là cần thiết, là điều kiện tiên quyết để được cứu. Họ khẳng định cho đến đời đời rằng sự cứu rỗi hoàn toàn là bởi ân điển nhờ đức tin nơi một mình Đấng Christ mà thôi.
Những người theo Do-thái giáo là các giáo sư giả, họ tự xưng là những người canh giữ của chủ nghĩa thiên về với luật pháp. Họ đã dạy giáo lý cứu rỗi bằng việc làm qua hành động của phép cắt bì (câu 1). Khi đáp trả với sự việc nầy, Phie-rơ đứng dậy và đã đưa ra bài diễn văn đầu tiên trong ba bài tại Giáo hội nghị là một sự biện hộ mạnh mẽ nhất về sự cứu rỗi bởi ân điển nhờ vào một mình đức tin chứa trong Kinh Thánh. Phie-rơ khởi sự lời biện hộ của ông bằng cách xem lại cách Đức Chúa Trời cứu vớt dân Ngoại trong những ngày đầu tiên của Hội thánh không có một đòi hỏi nào về phép cắt bì, tuân giữ luật pháp, hay nghi thức — đề cập đến sự cứu rỗi của Cọt-nây cùng người nhà của ông ta (10:44–48; 11:17-18). Nếu Đức Chúa Trời không đòi hỏi thêm bất kỳ đặc điểm nào để được cứu, những kẻ thiên về với luật pháp cũng không được đòi hỏi như thế.
Những người theo Do-thái giáo đã luận rằng Cọt-nây và nhiều người khác sẽ không được cứu vì họ không thoả mãn mọi đòi hỏi của luật pháp. Để ngăn trở kiểu tranh luận ấy, Phie-rơ nhắc lại rằng Đức Chúa Trời đã ban cho họ Đức Thánh Linh, nhơn đó minh chứng sự chính đáng ơn cứu rỗi của họ (câu 8). Phie-rơ cảnh cáo những người theo Do-thái giáo rằng họ đang áp đặt cái ách lên cổ của các môn đồ — một phần mô tả luật pháp và hình thức thiên về với luật pháp của các thầy thông giáo và người Pha-ri-si (Mathiơ 23:4; Luca 11:46). Những người thiên về với luật pháp mong mỏi các dân Ngoại mang lấy gánh nặng mà bản thân họ không bằng lòng mang lấy.Trái lại, chúng ta tin rằng nhờ ơn Đức Chúa Jêsus, chúng ta được cứu cũng như người ngoại vậy (câu 11). Lời công bố của ông là một sự khẳng định vang dội về ơn cứu rỗi bởi ân điển nhờ một mình đức tin thôi.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bài 14: A-qui-la Và Bê rít-sin Trợ Giúp Thế Nào Cho A-bô-lô?

Bài 15: Không Nhận Lãnh Đức Thánh Linh?

Bài 12: Vua Giô-sa-phát Bày Tỏ Đức Tin?